In và Truyền Thông
Bạn có muốn phản ứng với tin nhắn này? Vui lòng đăng ký diễn đàn trong một vài cú nhấp chuột hoặc đăng nhập để tiếp tục.
Tìm kiếm
 
 

Display results as :
 


Rechercher Advanced Search

Latest topics
» Tài liệu Gia công bề mặt
Lựa chọn dung dịch làm ẩm I_icon_minitimeMon Oct 15, 2012 11:03 am by phuonglinh

» Lich tap huan coi thi 2012
Lựa chọn dung dịch làm ẩm I_icon_minitimeTue Jun 12, 2012 4:46 pm by Admin

» Điểm giữa kỳ
Lựa chọn dung dịch làm ẩm I_icon_minitimeWed May 23, 2012 9:09 pm by Admin

» Tài liệu thầy Vũ đưa
Lựa chọn dung dịch làm ẩm I_icon_minitimeSun May 13, 2012 8:49 pm by laytailieu

» Bảng tính Excel cho BT CSTK nhà máy in
Lựa chọn dung dịch làm ẩm I_icon_minitimeFri May 11, 2012 4:22 am by caominhhung1991

» Tổng hợp BC CNGCsau in
Lựa chọn dung dịch làm ẩm I_icon_minitimeMon May 07, 2012 5:12 pm by Admin

» File bài học cô Giang cho ngày 28/04/2012
Lựa chọn dung dịch làm ẩm I_icon_minitimeSat Apr 28, 2012 8:18 pm by Admin

» Cách xác định định lượng giấy
Lựa chọn dung dịch làm ẩm I_icon_minitimeTue Apr 24, 2012 6:46 pm by Admin

» bài tập phần gấp
Lựa chọn dung dịch làm ẩm I_icon_minitimeMon Apr 23, 2012 7:54 pm by Admin

Affiliates
free forum


Lựa chọn dung dịch làm ẩm

Go down

Lựa chọn dung dịch làm ẩm Empty Lựa chọn dung dịch làm ẩm

Bài gửi by Admin Mon Nov 28, 2011 9:43 pm

DUNG DỊCH LÀM ẨM KHUÔN IN

LOẠI THAY THẾ ISOPROPANOL (IPA)


Trong công nghệ in offset ướt, việc làm ẩm khuôn in là quá trình có tính chất quyết định tới việc in được hay không, in khó hay dễ, in chất lượng cao hay thấp và sự đồng đều, ổn định của tờ in. Phương pháp in offset là phương pháp không ổn định, và chính quá trình làm ẩm khuôn in gây ra sự không ổn định này. Quá trình in là một quá trình vừa hóa học, vừa cơ học, nhất là in với tốc độ cao, các điều kiện lúc in rất khác khác biệt so với các điều kiện trong phòng thí nghiệm, đây cũng là một trong các lý do để nói khó có hai kết quả in giống nhau, ví dụ như khi tìm ra loại dung dịch thay thế cồn ở trong phòng thí nghiệm rất tốt, nhưng khi làm việc trên máy in thì lại rất khó khăn.

Các vấn đề về làm ẩm khuôn in offset gồm: hệ thống làm ẩm của máy in; công nghệ chế bản và dung dịch làm ẩm được quan tâm nghiên cứu nhiều, các nhà sản xuất máy in, sản xuất bản in, sản xuất dung dịch làm ẩm đã đưa ra nhiều các giải pháp khác nhau. Việc làm ẩm khuôn in trong in offset được nhiều người quan tâm tìm hiểu và đến nay còn có nhiều quan điểm khác nhau. Đặc biệt vấn đề thấm ướt và tương tác của dung dịch làm ẩm với mực in trong quá trình in đã thu hút nhiều nhà nghiên cứu trên thế giới. Phần lớn khi nghiên cứu đều phân tích thấm ướt bản in bằng dung dịch làm ẩm trong điều kiện tĩnh và tương tác của mực in với dung dịch làm ẩm trên quan điểm ảnh hưởng của sức căng giữa các pha trên giới hạn “mực in – dung dịch làm ẩm’’. Tuy nhiên trong nhiều trường hợp các kết quả thấm ướt bản in bởi dung dịch làm ẩm và nhũ hóa mực in không trùng hợp với dự báo của lý thuyết. Điều đó được giải thích bởi: thứ nhất việc thấm ướt các bề mặt xẩy ra trong điều kiện động lực học, các thông số này khác với các thông số tĩnh; thứ hai việc nhũ hóa dung dịch làm ẩm trong mực in xẩy ra trong các điều kiện đặc biệt, trong đó quá trình thủy động lực có ý nghĩa quan trọng hơn sức căng pha của hệ “mực in – dung dịch làm ẩm”. Do đó, việc áp dụng các phương thức tiếp cận khác về thấm ướt các bề mặt bởi dung dịch làm ẩm và quá trình nhũ hóa dung dịch làm ẩm trong mực in trong các điều kiện động lực học, từ đó, lựa chọn các chất hoạt động bề mặt để nâng cao hiệu quả của dung dịch làm ẩm có tính thực tiễn cao.

Trong khi đó, ngày nay thế giới quan tâm rất nhiều đến quá trình sản xuất sạch, việc sản xuất gắn với bảo vệ môi trường là xu hướng tất yếu hiện nay và trong tương lai. Trong bối cảnh đó ngành sản xuất in không phải là ngoại lệ, do đó, việc tìm ra các dung dịch làm ẩm khuôn in bằng các dung dịch có tính thân thiện với môi trường đã được nhiều hãng trên thế giới quan tâm. Hiện nay trong công nghệ in offset ướt việc làm ẩm bằng dung dịch dùng cồn isopropanol (IPA) được dùng phổ biến, nhưng IPA có ngồn gốc dầu mỏ, khi in thường tạo ra chất hữu cơ bay hơi (VOC: volatile organic compound) gây ôn nhiễm môi trường. Để khắc phục hiện tượng này người ta đã nghiên cứu và đưa vào sử dụng loại dung dịch làm ẩm thay thế cồn (Alcohol Replacement). Tuy nhiên việc dùng dung dịch thay thế cồn đòi hỏi hệ thống làm ẩm của máy in phải có một số thay đổi cho phù hợp, quá trình in đòi hỏi giữ chế độ in nghiêm ngặt hơn, chất lượng in khó kiểm soát. Vấn đề đặt ra là tìm loại dung dịch làm ẩm thân thiện với môi trường nhưng không ảnh hưởng đến quá trình in, đồng thời không phải thay đổi hệ thống làm ẩm của các máy in hiện nay. Đây là một hướng mà chúng tôi đã nghiên cứu và áp dụng thử nghiệm. Để tìm hiểu về vấn đề này, trong phạm vi một bài viết ngắn chúng tôi không hy vọng trình bày được tất cả các vấn đề lên quan tới quá trình làm ẩm, mà chỉ đề cập đến một số khía cạnh về mặt nguyên tắc cơ bản của cách tiếp cận loại dung dịch làm ẩm thân thiện với môi trường.

Chức năng của dung dịch làm ẩm : Dung dịch làm ẩm (dampening solution) còn gọi là dung dịch máng nước (fouctain solution) là loại dung dịch dùng trong công nghệ in offset ướt (lithographic) để truyền lên bản in trong lúc in. Tác dụng của dung dịch làm ẩm: Làm phần tử không in không bắt mực, Nhũ hóa mực in tạo thuận lợi cho quá trình truyền mực; Làm mát, bôi trơn bề mặt bản in và cao su offset.

Để thực hiện được mục đích đó, dung dịch làm ẩm phải có các chức năng cơ bản sau: Tạo màng nước mỏng ngăn không cho mực bám lên phần tử không in trên bản; Duy trì tính ưa nước tự nhiên của phần tử không in; Làm sạch nhanh mực trên các phần tử không in khi bắt đầu in; Làm nhanh quá trình dàn trải của nước trên toàn bộ các phần tử không in trên bản; Giúp dòng nước chảy đều qua các quả lô làm ẩm; Làm trơn bản in và tấm cao su offset; Điều chỉnh quá trình nhủ hóa của nước và mực. Ngoài ra dung dịch làm ẩm phải thỏa mãn các yêu cầu sau: Nhanh chóng thấm ướt bề mặt phần tử không in; Không ảnh hưởng đến khả năng nhận mực của phần tử in nhất là các phần tử in nhỏ; ít tạo bọt, tạo ít khí thải VOC; Cho phép in được ngay sau giữa các lần nghỉ.

Để có các chức năng cũng như yêu cầu của dung dịch làm ẩm, các nhà sản xuất đã đưa ra nhiều đơn pha chế khác nhau. Trong quá trình hình thành và phát triển của công nghệ in offset người ta đã dùng nhiều loại khác nhau, nhưng có thể phân thành ba loại là: dung dịch nước; dung dịch pha cồn IPA và dung dịch thay thế cồn. Hiện nay người ta thường dùng dung dịch làm ẩm pha với cồn, trong đó dung dịch làm ẩm thường gồm các thành phần sau: bộ đệm pH; axit hưu cơ; chất hoạt đông bề mặt; keo ưa nước; chất điều chỉnh nhũ hóa; chất tạo độ nhớt; chất chống tạo bọt; chất chống vi khuẩn, nấm…

Dung dịch làm ẩm có nhiều đặc trưng khác nhau: Giá trị pH và khả năng đệm của nó; sức căng bề mặt; khả năng thấm ướt và nhũ hóa; độ nhớt; độ dẫn điện; độ cứng của nước… Trong phạm vị bài viết này chúng tôi chỉ đề cập tới các vấn đề: sức căng bề mặt động lực học ảnh hưởng tới quá trình thấm ướt và nhũ hóa dung dịch làm ẩm trong mực in; độ nhớt của dung dịch làm ẩm ảnh hưởng tới chiều dầy lớp dung dịch trên phần tử không in. Đây là những vấn đề liên quan trực tiếp và dùng làm cơ sở cho việc thay thế dung dịch làm ẩm bằng cồn IPA bằng một dung dịch khác, còn các đặc điểm khác của dung dịch làm ẩm không có gì khác giữa các loại dung dịch cồn IPA và các dung dịch thay thế

Cơ chế hoạt động của dung dịch làm ẩm. Để chọn loại dung dịch làm ẩm thay thế cồn IPA theo yêu cầu hiện nay ta xem xét cơ chế hoạt động của quá trình làm ẩm khuôn in. Tác dụng của dung dịch làm ẩm là nhanh chóng tạo thành một màng nước mỏng phủ kín toàn bộ bề mặt của các phần tử không in trên khuôn, để làm được điều đó thì dung dịch làm ẩm phải có tính thấm ướt bề mặt, nghĩa là góc thấm ướt phải nhỏ. Góc thấm ướt q được tính theo công thức Young

Cosq = (s r-k - sr-l ) / sl-k

Trong đó: s r-k ; sr-l ; sl-k – là sức căng bề mặt trên các giới hạn: “vật rắn- không khí”; “vật rắn- chất lỏng”; “chất lỏng - không khí”

Theo phương trình Young ta có hệ số dàn trải S

S = s r-k - sr-l - sl-k

Nếu bề mặt bản được tạo nhám với hệ số độ nhám k (k>1) thì góc thấm ướt trên bề mặt nhám theo công thức Venxel-Deriaquin

Cosq' = k.Cosq (q' là góc thấm ướt trên bề mặt nhám)

và biểu thức Keable

[2k/(1+k)]2. F2 .s r-k > sl-k

Trong đó: q’ là góc thấm ướt đã tính đến độ nhám; F là thông số tương tác hiệu quả

Các tính toán đã chỉ ra rằng dung dịch có sức căng bề mặt lớn không dàn trải trên các bề mặt nhẵn và không được gia công bằng keo ưa nước. Như vậy để quá trình thấm ướt hoàn toàn phần tử không in người ta sử dụng các cách sau: giảm sức căng bề mặt của dung dịch làm ẩm; tăng diện tích bề mặt phần tử không in (k>1,2) hoặc thay đổi bề mặt của các phần tử không in bằng cách hấp phụ lên nó một màng keo ưa nước. Trong quá trình in các phần tử không in mất đi độ nhám ban đầu do tác dụng hóa học và cơ học, do đó khả năng nhận dung dịch làm ẩm giảm xuống, để duy trì quá trình thấm ướt tốt thì phải dùng keo ưa nước trong dung dịch làm ẩm để duy trì cân bằng “hòa tan – hấp phụ”. Tuy nhiên trong quá trình in độ nhám bề mặt của phần tử không in ngày một giảm, lớp keo ưa nước trong dung dịch làm ẩm cũng không bù đắp được. Do đó, để đảm bảo sự thấm ướt hoàn toàn phần tử không in cần phải giảm sức căng bề mặt của dung dịch làm ẩm. Khi đó giới hạn trên của sức căng bề mặt của dung dịch làm ẩm được xác định theo công thức Keable khi xuất phát từ sức căng bề mặt của vật rắn là các phần tử không in. Trong trường hợp này ta giả thiết: sức căng pha của hệ “phần tử không in – dung dịch làm ẩm” là nhỏ có thể bỏ qua, hệ số độ nhám bằng 1, không có lớp keo ưa nước trên bề mặt phần tử không in, khi đó giới hạn trên này phụ thuộc vào sức căng bề mặt của các phần tử không in. Giới hạn này có thể định hướng cho việc pha chế dung dịch làm ẩm

Trong quá trình in dung dịch làm ẩm không chỉ tiếp xúc với phần tử không in trên bản mà còn tiếp xúc với mực tại lô trà mực và xẩy ra hiện tượng thấm ướt lớp mực bởi dung dịch làm ẩm. Khi lớp mực trên lô tiếp xúc với lớp dung dịch trên bản, lúc tách ra sẽ tách tại lớp nước, một lượng nước sẽ bám lên lớp mực. Nếu dung dịch làm ẩm có sức căng bề mặt lớn thì dung dịch làm ẩm trên bề mặt lớp mực bị phân chia thành các giọt nhỏ, nghĩa là xẩy ra quá trình co cụm của màng dung dịch; nếu dung dịch làm ẩm có sức căng bề mặt nhỏ thì có thể đạt tới sự dàn trải của dung dịch làm ẩm trên bề mặt lớp mực, việc dàn trải này là điều kiện cần thiết khi sử dụng hệ thống làm ẩm liên tục. Việc thấm ướt lớp mực gây ra quá trình nhũ hóa của dung dịch làm ẩm trong mực in. Khi giảm sức căng bề mặt sẽ tạo thành trên bề mặt lớp mực một màng dung dịch làm ẩm mỏng và đồng đều. Chiều dầy của màng dung dịch làm ẩm trên bề mặt lớp mực, độ nhám của bề mặt lớp mực và độ nhớt của mực quyết định tới quá trình tạo nhũ tương. Việc điều chỉnh các thông số trên có thể thực hiện được nhờ việc giảm sức căng bề mặt động lực học của dung dịch làm ẩm. Sự tạo thành nhũ tương được xem xét theo quan điểm không ổn định thủy động lực học, khi đó quá trình tạo thành nhũ tương gồm 3 giai đoạn: giai đoạn thứ nhất là tạo thành màng mỏng dung dịch làm ẩm trên bề mặt lớp mực; giai đoạn thứ hai là phân chia lớp này trong vùng tiếp xúc; giai đoạn thứ ba là sự xuất hiện các hạt nhũ tương trong thể tích lớp mực. Giai đoạn thứ nhất phụ thuộc vào quá trình thấm ướt dung dịch làm ẩm lên lớp mực, do đó bằng cách thay đổi các thông số thấm ướt có thể điều khiển được quá trình tạo thành nhũ tương. Trong giai đoạn thứ hai độ nhám bề mặt lớp mực, chiều dầy lớp dung dịch làm ẩm ảnh hưởng nhiều đến quá trình phân chia của màng dung dịch làm ẩm, khi đó thay đổi độ nhớt của dung dịch làm ẩm sẽ điều chỉnh được lượng nước đi vào mực. Trong giai đoạn thứ ba sự dịch chuyển của lớp mực có ảnh hưởng quyết định lên sự thâm nhập của các giọt nhỏ dung dịch làm ẩm vào thể tích lớp mực. Sự hòa nhập của hai lớp mực sẽ kết thúc quá trình tạo nhũ tương. Khi đó độ nhớt của mực đóng vai trò quan trọng, độ nhớt cao của mực làm giảm sự chuyển dịch và làm xấu đi điều kiện hòa nhập của hai lớp mực, do đó, hàm lượng nhũ tương giảm đi. Các tính toán đã chỉ ra rằng thời gian tạo thành nhũ tương nhỏ hơn 3 ms và sau khi tạo thành một phần nhũ tương lập tức bị phá hủy, thời gian phá hủy rất gắn thường nhỏ hơn 1,5 ms. Tuy nhiên trong thời gian như vậy và cơ chế phá hủy như đã chỉ ra thì việc nhìn nhận độ bền vững của nhũ tương theo qui luật hóa lý tỏ ra kém tin tưởng. Để đánh giá các tính chất của dung dịch làm ẩm chứa các chất hoạt động bề mặt phải kiểm tra khả năng nhũ hóa của chúng trong điều kiện thực, các số liệu nhũ hóa thu được trong phòng thí nghiệm chỉ có tính chất tham khảo. Nhũ hóa sẽ ảnh hưởng tới độ dính của mực in, khi độ nhớt của mực tăng thì độ dính của nó tăng, nhưng sự có mặt của nhũ tương sẽ làm phá hủy sự phụ thuộc này. Sự tạo thành nhũ tương làm tăng độ nhớt của mực in, việc tăng độ nhớt sẽ làm tăng độ dính của mực và sự phá hủy của nhũ tương làm giảm độ dính của mực.

Quá trình thấm ướt bề mặt các phần tử không in trong khi in offset xẩy ra trong các điều kiện động lực học. Thời gian sống của bề mặt dung dịch làm ẩm phụ thuộc vào tốc độ của máy in, thời gian sống này vào khoảng từ 24 đến 325 ms, đối với máy in giấy cuộn có thể nhỏ hơn 10 ms. Trong thời gian ngắn như vậy quá trình thấm ướt phải hoàn thành. Quá trình thấm ướt diễn ra qua hai giai đoạn: giai đoạn thứ nhất là thấm ướt dưới tác dụng của áp lực; giai đoạn thứ hai là thấm ướt tự do. Trong giai đoạn thứ nhất các yếu tố cơ học và thủy động lực học nghĩa là các điều kiện tiếp xúc đóng vai trò quan trọng. Khi đó việc giảm khoảng cách giữa các bề mặt tới giá trị tương tác hiệu quả đóng vai trò quan trọng (điều này giải thích tính ưu việt của hệ thông làm ẩm liên tục). Trong giai đoạn thấm ướt tự do diễn ra song song hai quá trình: hợp nhất hai lớp dung dịch làm ẩm và thấm ướt bề mặt bởi dung dịch làm ẩm. Tương tác giữa các phân tử xuất hiện khi khoảng cách giữa 2 bề mặt đạt tới giá trị hiệu quả của tương tác giữa các phân tử và việc phân tách lớp luôn xẩy ra trong thể tích của lớp dung dịch làm ẩm. Trong giai đoạn thấm ướt tự do tùy thuộc vào động lực dàn trải, lớp dung dịch làm ẩm hoặc là dàn trải hoặc là tích tụ thành giọt.

Động lực của quá trình dàn trải tính theo công thức:

Ds = k(sr-k - sr-l ) - sd l-k > 0

Động lực của quá trình tích tụ tính theo công thức:

Ds = sd l-k - k(sr-k - sr-l ) > 0

Trong đó: Ds là động dàn trải hoặc tích tụ; sd l-k là sức căng bề mặt động lực học của dung dịch làm ẩm; k là hệ số độ nhám

Khi tính toán chấp nhận hai giả thuyết: thứ nhất, sức căng bề mặt động lực học của vất rắn bằng sức căng tĩnh; thứ hai, sức căng giữa pha động lực học của hệ “vật rắn - dung dịch làm ẩm” bằng sức căng bề mặt tĩnh của hệ “vật rắn - nước sạch”. Khi đó động lực phụ thuộc vào sức căng động lực học của dung dịch làm ẩm và độ nhám bề mặt. Như vậy để điều khiển quá trình thấm ướt tự do cần phải giảm sức căng bề mặt động lực học chứ không phải sức căng bề mặt tĩnh của dung dịch làm ẩm. Trong cả 2 trường hợp: dàn trải và tích tụ độ nhớt của dung dịch làm ẩm là yếu tố cản trở sự hoạt động của chất lỏng. Tuy nhiên trong quá trình dàn trải tùy thuộc vào khoảng thời gian mà trong đó quá trình diễn ra, độ nhớt có thể không ảnh hưởng đến quá trình này. Các tính toán đã chỉ ra rằng độ nhám gây nên các ảnh hưởng thực sự đối với động lực của quá trình dàn trải.

Việc giảm sức căng bề mặt của dung dịch là một trong các yếu tố quan trọng trong quá trình làm ẩm. Nhiều chất khác nhau có thể làm giảm sức căng bề mặt của dung dịch làm ẩm, có thể chia thành hai nhóm: nhóm các chất có phân tử lượng thấp và nhóm các chất có phân tử lượng cao, cơ chế làm giảm sức căng mặt của mỗi loại cũng khác nhau. Sự giảm nhanh sức căng bề mặt của dung dịch izopropanol có phân tử lượng thấp được giải thích bằng cơ chế khuếch tán, theo đó, các phân tử izopropanol có kích thước nhỏ nhanh chóng khuếch tán từ thể tích lên bề mặt. Sự giảm sức căng bề mặt của các chất hoạt động cao phân tử được giải thích bởi khả năng định hướng lại mạch cacbon trên bề mặt của dung dịch từ vị trí nằm ngang tới vị trí thẳng đứng. Tuy nhiên sức căng bề mặt cân bằng thấp của dung dịch làm ẩm không phải lúc nào chúng đều sẽ thấm ướt tốt trong điều kiện động lực học và ngược lại dung dịch có sức căng bề mặt tương đối thấp nhưng khả năng thấm ướt không hiệu quả trong điều kiện thấm ướt động lực học. Để thỏa mãn quá trình thấm ướt bề mặt của dung dịch làm ẩm trong khi in thì các chất hoạt động bề mặt có trong dung dịch phải có khả năng giải phóng nhanh, nghĩa là khi màng nước tách ra, những phân tử hoạt động bề mặt này phải nhanh chóng chuyển tới bề mặt của nước, sao cho các phân tử phải sắp xếp cực ưa nước của phân tử hướng lên trên bề mặt. Các phân tử nằm trong thể tích dung dịch không có hiệu quả trong quá trình thấm ướt. Vậy chất hoạt động bề mặt có hiệu quả là chất có các phân tử có thể nhanh chóng liên kết tạo thành bề mặt tốt khi phân chia lớp nước.

Việc sử dụng nồng độ cao các chất hoạt động bề mặt trong dung dịch làm ẩm sẽ làm ổn định gá trị sức căng bề mặt của chúng. Độ ổn định của sức căng bề mặt được đánh giá nhờ hệ số ổn định e

e = C / g.d

Trong đó: e là hệ số ổ định; g là hấp phụ của chất hoạt động bề mặt (mol/m3);

d là chiều dầy của lớp dung dịch làm ẩm (mm)

Các chất hoạt động bề mặt có hệ số ổn định thấp sẽ không có khả năng bảo đảm sự không đổi của sức căng bề mặt khi tăng bề mặt giữa các pha. Điều này do sự khuếch tán các chất hoạt động bề mặt từ thể tích lên lớp bề mặt không xẩy ra do lượng chất hoạt động bề mặt quá ít trong thể tích.

Khi sử dụng hệ thống làm ẩm liên tục độ nhớt của dung dịch làm ẩm sẽ ảnh hưởng mạnh đến chiều dầy của màng dung dịch làm ẩm được truyền lên bản in. Nếu dùng dung dịch làm ẩm có chứa 10% izopropanol ở 10oC thì độ nhớt của dung dịch lớn hơn 1, 7 lần độ nhớt của dung dịch làm ẩm chứa các chất hoạt động bề mặt. Điều này nghĩa là khi sử dụng các chất hoạt động bề mặt thay thế cồn thì cần phải tăng độ nhớt của dung dịch làm ẩm để đảm bảo chiều dầy của màng dung dịch mà không cần có sự thay đổi hoặc điều chỉnh nhiều hệ thống làm ẩm của máy in. Yêu cầu chính khi dùng các chất làm thay đổi độ nhớt của dung dịch là không gây tác dụng phụ khác tới quá trình làm ẩm và bản in.

Cồn chỉ mang lại sức căng bề mặt trung bình, nhưng các phân từ của nó nhỏ, tính động lực học tốt nên khả năng di chuyển lên trên bề mặt gấp hàng 100 lần các phân tử của các chất hoạt động bề mặt thay thế cồn. Cồn là chất tạo cho dung dịch làm ẩm nhiều đặc tính rất tốt vì cồn có một số đặc điểm sau: làm giảm sức căng bề mặt của dung dịch; bay hơi nhanh ra khỏi lớp mực, khi bay hơi không để lại cặn; quá trình bay hơi giúp làm lạnh mực trong quá trình in; làm tăng độ nhớt của dung dịch. Dung dịch có pha cồn sẽ đảm bảo cho quá trình nước chảy liên tục từ bể chứa tới các quả lô và cuối cùng lên bản là một một màng nước bằng nhau. Đặc tính quan trọng của cồn trong dung dịch làm ẩm là đặc tính kép vừa làm giảm sức căng bề mặt vừa tăng độ nhớt của dung dịch làm ẩm. Sử dụng dung dịch làm ẩm có thêm cồn đem lại rất nhiều thuận lợi trong quá trình in, tuy nhiên một nhược điểm lớn nhất của dung dịch cồn là tạo ra khí thải hữu cơ VOC và dùng cồn IPA có nguồn gốc dầu mỏ không thân thiện với môi trường. Vì vậy hiện nay người ta đang thay dung dịch cồn bằng một loại dung dịch làm ẩm khác có chức năng giống như cồn gọi là dung dịch làm ẩm thay thế cồn. Hiện đã có nhiều loại dung dịch thay thế cồn, nhưng khả năng làm ẩm của chúng không được như dung dịch cồn, đồng thời quá trình in còn gập nhiều khó khăn, ngoài ra muốn dùng được phải thay đổi hệ thống làm ẩm hiện tại của máy in.

Lựa chọn dung dịch làm ẩm hiệu quả: Như vậy ta thay đổi dung dịch làm ẩm bằng cồn IPA bằng loại làm ẩm nào? Loại thay thế cồn (alcohol replacement) hay loại khác? Khi dùng dịch thay thế cồn sẽ loại bỏ được cồn IPA có nguồn gốc dầu mỏ, tuy nhiên loại dung dịch này gây khó khăn trong quá trình in, nhất là khi in các tài liệu khó. Một điều khó khăn nữa là các chất tạo độ nhớt của dung dịch khi in sẽ bị tích tụ trong mực trên tờ in làm cho tờ in lâu khô hơn và trên hệ thống truyền mực làm cho mực giảm độ dính và bị nhũ hóa quá mức. Rõ ràng dung dịch làm ẩm thay thế cồn không có được những tính ưu việt của loại dung dịch làm ẩm dùng cồn IPA. Việc sử dụng dung dịch thay thế cồn chưa mang lại kết quả như mong muốn, mà chỉ làm giảm sự phát khí thải hữu cơ và không phải dùng IPA có nguồn gốc dầu mỏ. Do đó, ta không nên thay thế loại dung dịch làm ẩm dùng cồn IPA bằng dung dịch thay thế cồn. Vậy ta nên dùng loại dung dịch nào? Câu trả lời là ta không nên thay thế dung dịch làm ẩm pha cồn IPA bằng dung dịch thay thế cồn, mà ta thay cồn IPA có nguồn gốc dầu mỏ bằng cồn etylic có nguồn gốc thực vật và khi in chỉ sử dụng cồn ở nồng độ 5% trong dung dịch. Với tỷ lệ này của etylic trong dung dịch làm ẩm thì khí thải vào không khí là trong giới hạn cho phép.

Như vậy bằng việc thay thế cồn IPA bằng cồn Etylic trong dung dịch làm ẩm chúng ta có thể giải quyết một loạt các khó khăn mà dùng dung dịch thay thê cồn gây ra mà vẫn đảm bảo tính năng làm ẩm của dung dịch giống như dung cồn IPA. Khi thay thế cồn IPA bằng cồn Etylic không cần thay đổi gì của hệ thống làm ẩm hiện tại của máy in, chỉ cần pha vào dung dịch làm ẩm loại dung dịch combifix đặc biệt (loại dùng với cồn etylic nồng độ thấp)./.






TÀI LIỆU THAM KHẢO

1- The function of fountain solution in lithography – Fuji hunt photographic chemicals, INC

2- Printing with alcohol replacements – Fuji hunt photographic chemicals, INC

3- Water, pH and conductivity for printers - Fuji hunt photographic chemicals, INC

4- J.A.G.Drake - Chemical Technology in Pringting and Imaging Systems – Royl society of chemistry

5- V.P. Tchikhonov, Lê Duy – Lụa chọn các dung dịch làm ẩm trong in offset – Tạp chí Polygraphia, số 1 năm 1994 (Bản tiếng Nga)

Admin
Admin

Tổng số bài gửi : 161
Reputation : 1
Join date : 28/09/2010

https://invatruyenthong.forum-viet.com

Về Đầu Trang Go down

Về Đầu Trang

- Similar topics

 
Permissions in this forum:
Bạn không có quyền trả lời bài viết